• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng chậm lại đến hết năm 2025

Theo Báo cáo "Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam" vừa được công bố vào ngày 8/9/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,6% trong năm 2025, nhờ nửa đầu năm đạt tốc độ bứt phá 7,5%.

Lễ Công bố Báo cáo "Điểm lại" tháng 9/2025: Cập nhật kinh tế Việt Nam của WB. Ảnh: HD

Báo cáo "Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam" là ấn phẩm kinh tế định kỳ 2 lần mỗi năm của WB, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về triển vọng kinh tế và các chiến lược tăng trưởng dành cho Việt Nam.

Trong kỳ này, Báo cáo cho rằng, sau đà tăng trưởng mạnh mẽ nhờ xuất khẩu sớm tăng mạnh trong nửa đầu năm, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng chậm lại trong phần còn lại của năm khi xuất khẩu dần trở về quỹ đạo bình thường.

Là nền kinh tế định hướng xuất khẩu, Việt Nam tiếp tục chịu tác động từ triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy yếu và nhu cầu giảm từ các đối tác thương mại lớn. Bên cạnh đó, những bất định về chính sách thương mại có thể ảnh hưởng tới niềm tin tiêu dùng và doanh nghiệp.

 

Kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng chậm lại đến hết năm 2025 - Ảnh 1

 

Về trung hạn, ông Sacha Dray - chuyên gia kinh tế của WB tại Việt Nam cho hay, tăng trưởng được dự báo chậm lại còn 6,1% năm 2026, trước khi phục hồi lên 6,5% vào năm 2027 nhờ thương mại toàn cầu khởi sắc và Việt Nam tiếp tục giữ lợi thế là điểm đến sản xuất cạnh tranh.

Để hỗ trợ tăng trưởng và giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài, Báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư công, kiểm soát rủi ro trong hệ thống tài chính và thúc đẩy các cải cách cơ cấu.

Cụ thể, ông Sacha Dray cho rằng, chính sách tài khóa cần tiếp tục đi đầu về hỗ trợ khả năng chống chịu và tăng trưởng trong dài hạn, trong điều kiện dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực về tỷ giá.

Hơn nữa, nợ công ở mức thấp của Việt Nam cho phép tăng đầu tư, đặc biệt nhằm thu hẹp khoảng cách thiếu hụt về hạ tầng trong các lĩnh vực năng lượng, logistics và giao thông vận tải, với điều kiện cần chú trọng quản lý đầu tư công đảm bảo hiệu suất, giám sát an toàn nợ và rủi ro.

Cùng với đó, tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính vẫn là yêu cầu sống còn, cần được thực hiện qua yêu cầu cải thiện về tỷ lệ an toàn vốn, nâng cao giám sát an toàn.

 

Bà Mariam J. Sherman - Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia và Lào nhận định, với tỷ lệ nợ công thấp, Việt Nam có dư địa tài khóa dồi dào.

Nếu được thực hiện hiệu quả, đầu tư công sẽ vừa giải quyết những bất cập hạ tầng, vừa tạo thêm việc làm.

Song song, cần thúc đẩy cải cách để củng cố dịch vụ thiết yếu, xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển vốn con người và đa dạng hóa thương mại - đây chính là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro toàn cầu và duy trì tăng trưởng dài hạn.

Ngoài ra, nhu cầu đẩy nhanh cải cách cơ cấu nhằm cải thiện các dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng cường vốn nhân lực và đa dạng hóa thương mại; qua đó, giúp giảm nhẹ rủi ro toàn cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn với khả năng chống chịu.

Báo cáo của WB cũng khuyến nghị phải tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân trong nước hội nhập hơn nữa vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Chẳng hạn qua việc nâng cao tỷ lệ sử dụng nhà cung cấp trong nước ở các doanh nghiệp FDI và khuyến khích áp dụng công nghệ để nâng cao năng suất ở các đơn vị cung ứng trong nước, cũng sẽ hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân tại Việt Nam.

Trọng tâm đặc biệt của Báo cáo lần này - với tiêu đề “Bứt tốc phát triển nhân tài công nghệ cao của Việt Nam” - nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao để hỗ trợ và tăng tốc hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của đất nước.

Để hiện thực hóa tham vọng công nghệ cao và mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam không chỉ thêm một lực lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (STEM) ngày càng đông đảo, mà còn cần một đội ngũ chuyên gia nòng cốt có khả năng dẫn dắt nghiên cứu, vận hành phòng thí nghiệm và biến ý tưởng thành các sản phẩm sẵn sàng đưa ra thị trường.

Báo cáo cũng chỉ ra tiềm năng gia tăng chi tiêu cho nghiên cứu & phát triển (R&D) cả từ khu vực công và tư nhân, đi cùng những cải cách rộng hơn cho môi trường kinh doanh.

Hiện tổng chi R&D của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam có thể mở rộng đội ngũ giảng viên Tiến sĩ để gia tăng số lượng người có trình độ sau Đại học và đội ngũ nhà nghiên cứu giỏi; đồng thời, đẩy mạnh liên kết giữa Đại học - doanh nghiệp - nhà nước nhằm xây dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho thị trường, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và lan tỏa tri thức.


Tác giả: Hương Dịu
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết