Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đề nghị kháng nghị bản án tranh chấp trường Newton
Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ra công văn đề nghị Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án 215/2020/KDTM-PT ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân TP Hà Nội.
Nhiều căn cứ pháp lý cần được xem xét
Theo công văn số 3531/MTTW – BTT của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ký ban hành ngày 21/1/2022, gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, đối với Bản án số 215/2000/KDTM-PT ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân(TAND) TP Hà Nội. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chỉ rõ những căn cứ pháp lý để kháng nghị bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân TP Hà Nội.
Căn cứ theo đơn của bà Trần Kim Phương, là Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục - TDS Việt Nam đề nghị xem xét lại Bản án số 215/2000/KDTM-PTcủa TAND TP Hà Nội theo thủ tục giám đốc thẩm, cùng các tài liệu liên quan, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nhận thấy các bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án, Hội đồng xét xử hai cấp đều căn cứ Điều 168 "Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất" của Luật đất đai năm 2013 để xác định thẩm quyền thực hiện chuyển nhượng một phần diện tích của thửa đất TH1 (thửa đất được chuyển nhượng ghi nhận trong hợp đồng ngày 23/01/2017) do bà Phương sở hữu, quản lý sử dụng theo quy định.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử hai cấp chưa xem xét cụ thể đến nội dung thửa đất TH1 là đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm, (theo các Quyết định số 6141/QĐ-UBND và Quyết định số 3846/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội), theo quy định pháp luật việc chuyển nhượng, góp vốn của bà Phương cần phải đảm bảo các điều kiện theo Điều 177 (Quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế khi giải thể, phá sản) Luật đất đai năm 2013.
Cụ thể là điểm b khoản 1 Điều 177 quy định: "1. Tổ chức kinh tế nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế khác thì có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 174 của Luật này trong các trường hợp sau đây:
a) Đất của tổ chức kinh tế góp vốn có nguồn gốc do được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất hoặc được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
b) Đất của hộ gia đình, cá nhân góp vốn mà không phải là đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm".
Theo quy định trên, bà Phương chưa đảm bảo yêu cầu của pháp luật để thực hiện việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại thửa đất TH1 thuộc mình quản lý.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có nhận định hợp đồng ngày 23/01/2017 có bản chất là "việc góp vốn bằng giá trị hạ tầng kỹ thuật trên đất để xây dựng trường học của các bên trong hợp đồng..." nhưng khi tính các giá trị lại tính giá trị phần diện tích đất theo hợp đồng, chấp nhận việc sở hữu, quản lý của công ty Newton trên phần diện tích đất trong lô THI theo hiện trạng là chưa thống nhất theo các nhận định của mình.
Về hợp đồng ngày 23/01/2017: Bản Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần đầu tư phát triển giáo dục - TDS Việt Nam (công ty TDS) giữa bà Trần Kim Phương và Trường THCS & THPT Newton (Trường Newton) ngày 23/01/2017: Theo bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định bản chất là “việc góp vốn bằng giá trị hạ tầng kỹ thuật trên đất để xây dựng trường học của các bên trong hợp đồng..." giữa bà Phương và Trường Newton (theo hình thức của hợp đồng), xét thấy việc cá nhân bà Phương đứng ra giao kết hợp đồng với tư cách cá nhân là chưa chính xác bởi thửa đất TH1 được giao cho công ty TDS thuê và bà Phương được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng (theo cuộc họp Đại hội cổ đông công ty TDS ngày 14/11/2012), nên chủ thể cá nhân bà Phương đứng ra ký hợp đồng chuyển nhượng một phần thửa đất TH1 là chưa chính xác; việc bà Phương ký và đóng dấu của công ty TDS cũng chưa đúng với hình thức và nội dung của hợp đồng. Nội dung này cũng chưa được Hội đồng xét xử hai cấp xem xét đánh giá cụ thể.
Mặt khác, hợp đồng là văn bản các bên tham gia thể hiện sự tự do ý chí trong giao kết, thể hiện ý chí thống nhất bằng các điều khoản; các bên trong hợp đồng sẽ thực hiện đến cùng để đảm bảo tính toàn vẹn của ý chí đó khi tham gia giao kết hợp đồng. Đối với bản hợp đồng ngày 23/01/2017 nêu trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xác định có hiệu lực pháp luật, nhưng tại phần quyết định của bản án mới chỉ nêu yêu cầu thực hiện một phần hợp đồng này, còn các nội dung khác liên quan chưa được đề cập đến.
Về Kết luận số 37/KL-CTHADS ngày 05/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự (THADS) thành phố Hà Nội đã xác định phần quyết định của các bản án sơ thẩm, phúc thẩm có những nội dung chưa rõ ràng dẫn đến việc khó hoặc không thi hành được bản án khi chưa được Tòa án giải thích rõ ràng việc này là có căn cứ, khi Hội đồng xét xử sử dụng cụm từ "các trang thiết bị..." trong phần quyết định của các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, những vấn đề chưa rõ của các bản án dẫn đến hệ quả vi phạm quy định của cơ quan Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Với những căn cứ nêu trên, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng: “để đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo vệ quyền và và lợi ích hợp pháp chính đáng của tổ chức và cá nhân, cũng như ổn định tình hình an ninh, trật tự xã hội, trân trọng đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét kháng nghị Bản án phúc thẩm số 215/2020/KDTM-PT ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân thành phố Hà Nội về việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại đối với Công ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục - TDS Việt Nam theo thủ tục giám đốc thẩm, và thông báo kết quả để Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng giám sát theo quy định của pháp luật”.
Bản án Phúc thẩm nhiều “tai tiếng”
Liên quan đến vụ việc nêu trên, Báo GD&TĐ đã có nhiều bài viết phản ánh về việc có nhiều sai phạm khi thi hành Bản án Phúc thẩm số 215/2020/KDTM-PT, ngày 30.11.2020 của Tòa án nhân dân TP Hà Nội đối với vụ án tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư. mà Nguyên đơn là Công ty CP Đầu tư và phát triển giáo dục TDS Việt Nam, với bị đơn là Trường Newton, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Trường tiểu học và THCS Pascal và Công ty TNHH Khai Phát.
Sau khi có bản án phúc thẩm nêu trên, Trường Newton có đơn đề nghị thi hành án. Căn cứ vào đề nghị của Trường Newton, Chi cục trưởng Chi cục Chi cục Thi hành án dân sự Quận Bắc Từ Liêm là ông Nguyễn Quốc Hùng ban hành 3 quyết định thi hành án, nhưng đều bị đương sự phản bác và tố cáo về những việc làm sai pháp luật của ông Cục trưởng Nguyễn Quốc Hùng.
Tháng 5.2021, Cục trưởng cục Thi hành án dân sự Hà Nội đã ra kết luận về các tố cáo đối với ông Nguyễn Quốc Hùng. Kết luận này đã xác định qua xác minh tố cáo của đương sự thấy có những nội dung không có trong bản án, hoặc không rõ nhưng Chi cục Thi hành án dân sự Quận Bắc Từ Liêm vẫn cho thi hành án. Bởi những sai phạm nêu trên, Cục Thi hành án dân sự Hà Nội đã yêu cầu Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự Quận Bắc Từ Liêm kiểm điểm trách nhiệm, đồng thời phải thu hồi, sửa đổi, bổ sung các quyết định thi hành án đã ban hành trước đó.
Từ tháng 10.2021, nguyên đơn vụ kiện là Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển giáo dục TDS Việt Nam tiếp tục gửi đơn tố cáo một thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân TP Hà Nội có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp, khi liên tiếp ban hành nhiều văn bản gửi Chi cục Thi hành án dân sự và các đương sự, giải thích bản án trái pháp luật. Trong đó, có những nhận định bổ sung ngoài bản án và thay đổi một số nội dung trong phần quyết định của bản án.
Trong lúc đơn thư của Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển giáo dục TDS Việt Nam chưa được giải quyết dứt điểm, ngày 4/11/2021, Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm đã tổ chức cưỡng chế tài sản tranh chấp theo nội dung bản án phúc thẩm của TAND TP Hà Nội.