Giảm 37% quy hoạch ngành, điều chỉnh quy hoạch quốc gia kiến tạo không gian phát triển mới
Chính phủ đề xuất giảm 37% quy hoạch ngành, tăng phân cấp và đơn giản hóa thủ tục trong Luật Quy hoạch (sửa đổi). Cùng với đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia được đề xuất điều chỉnh nhằm mở rộng không gian phát triển, hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP hai chữ số giai đoạn 2026–2030.
Giảm 37% số lượng quy hoạch
Tại Phiên họp sáng 7/11 của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã trình bày tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi) và điều chỉnh Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo Bộ trưởng, Luật Quy hoạch (sửa đổi) có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, với mục tiêu để quy hoạch thực sự là công cụ hiệu quả của Nhà nước trong việc hoạch định phát triển và kiến tạo không gian phát triển, các nội dung chính cần sửa đổi đã được Chính phủ báo cáo và được cấp có thẩm quyền đồng ý chủ trương trước khi trình Quốc hội.
Dự thảo Luật bổ sung điều chỉnh những quy định mang tính nguyên tắc chung đối với quy hoạch chi tiết ngành. Các luật chuyên ngành sẽ quy định chi tiết, cụ thể về lập, thẩm định, phê duyệt, công bố, điều chỉnh và nội dung quy hoạch chi tiết ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn.
Dự thảo cũng hoàn thiện quy định về hệ thống quy hoạch cấp quốc gia gồm: Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành; Quy hoạch vùng; Quy hoạch tỉnh; Quy hoạch chi tiết ngành; Quy hoạch đô thị và nông thôn; Quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định.
Tại Dự thảo, Chính phủ đề xuất sửa đổi bổ sung quy định về mối quan hệ giữa các loại quy hoạch để bảo đảm tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch, làm căn cứ cho việc xử lý mâu thuẫn giữa các loại quy hoạch. Đồng thời, quy định về xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch bao gồm: Xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch do các cấp khác nhau phê duyệt; Xử lý mâu thuẫn giữa quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh với các quy hoạch ngành và quy hoạch chi tiết ngành; Xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch cùng cấp.
Chính phủ cũng rà soát, thu gọn số lượng các quy hoạch tại Danh mục quy hoạch ngành và quy hoạch chi tiết ngành. Theo đó, số lượng quy hoạch đã giảm từ 78 quy hoạch xuống còn 49 quy hoạch (giảm 37%).
Để tăng cường phân cấp, phân quyền trong hoạt động quy hoạch, dự thảo Luật đã phân cấp cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia; Chính phủ quy định chi tiết thẩm quyền phê duyệt quy hoạch ngành để bảo đảm linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành. Đồng thời, phân cấp cho Bộ trưởng phê duyệt quy hoạch chi tiết ngành; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch tỉnh. Để bảo đảm công tác hậu kiểm; hạn chế điều chỉnh quy hoạch tùy tiện, Dự thảo Luật bổ sung quy định về giám sát, kiểm tra, rà soát quy hoạch.
Để đơn giản hóa quy trình, thủ tục trong hoạt động quy hoạch, Dự thảo bổ sung quy định cho phép các quy hoạch được lập đồng thời và thứ tự phê duyệt quy hoạch; quy định trường hợp đặc thù mà quy hoạch cấp dưới được phê duyệt trước để thực hiện các dự án khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách.
Dự thảo cũng bỏ quy định về “nhiệm vụ lập quy hoạch”, chuyển sang hình thức “đề cương lập quy hoạch” với nội dung đơn giản hơn và không phải tổ chức thẩm định. Đồng thời, cho phép các quy hoạch được điều chỉnh đồng thời; bỏ quy định về “kế hoạch thực hiện quy hoạch” và thay thế bằng “chương trình hành động thực hiện quy hoạch”.

Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch, Dự thảo Luật lần này quy định loại quy hoạch làm căn cứ đánh giá tại 2 giai đoạn: thẩm định chủ trương đầu tư và quyết định dự án. Trong đó, quy định nguyên tắc “Dự án của ngành, lĩnh vực nào thì căn cứ vào quy hoạch liên quan đến ngành, lĩnh vực đó để đánh giá sự phù hợp của dự án”.
Đối với dự án đầu tư công đặc biệt, dự án khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách, cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án được phép quyết định các nội dung của quyết định đầu tư khác với các quy hoạch có liên quan. Sau khi dự án được quyết định đầu tư, quy hoạch có liên quan mới phải rà soát, điều chỉnh quy hoạch theo trình tự, thủ tục rút gọn...
Mở rộng phạm vi 04 vùng động lực quốc gia
Về điều chỉnh Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, quy hoạch được điều chỉnh nhằm phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 2 chữ số trong giai đoạn 2026 - 2030 và các năm tiếp theo; cập nhật các chủ trương lớn được ban hành trong 2 năm gần đây của Đảng và Nhà nước về đột phá phát triển các ngành, lĩnh vực; đồng thời ứng phó với những thay đổi lớn trong bối cảnh quốc tế.
Theo đó, Chính phủ đề xuất điều chỉnh tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10%/năm trở lên, tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 8,5%/năm; đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 8.500 USD, Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,78…
Cùng với đó, điều chỉnh phân vùng kinh tế - xã hội theo phương án đã được cấp có thẩm quyền thông qua gồm 6 vùng, trong đó 2 vùng có sự thay đổi căn bản so với trước đây là vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố (từ tỉnh Thanh Hóa đến TP. Huế) và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 6 tỉnh, thành phố (từ TP. Đà Nẵng đến tỉnh Lâm Đồng). Điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế của các vùng, bổ sung các định hướng về phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng phù hợp với tiềm năng, lợi thế, tăng cường liên kết vùng.

Các đại biểu tại phiên họp.
Về định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội, Chính phủ đề xuất mở rộng phạm vi 4 vùng động lực quốc gia sang các khu vực liền kề đã có sự phát triển về công nghiệp, đô thị và thuận lợi về giao thông kết nối. Bổ sung Vùng động lực Bắc Trung Bộ bao gồm các địa bàn ven biển của ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh. Đồng thời, nhấn mạnh thêm định hướng phát triển các ngành công nghiệp mới nổi, các ngành dịch vụ hiện đại, đẩy mạnh hình thành, phát triển các khu thương mại tự do... tại các vùng động lực quốc gia.
Ngoài ra, Dự thảo Nghị định của Quốc hội cũng bổ sung định hướng tăng cường hạ tầng kết nối các đô thị trung tâm tại các tỉnh, thành phố mới sáp nhập gắn với chia sẻ hợp lý vai trò, chức năng; định hướng phát triển TP. Hồ Chí Minh trở thành siêu đô thị theo mô hình đa cực, đa trung tâm, vươn tầm quốc tế.
Đối với các ngành kinh tế quan trọng, Chính phủ đề xuất bổ sung định hướng phát triển nhanh các ngành kinh tế góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng 2 chữ số; tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược; phát triển các cụm ngành công nghiệp quy mô lớn, các mô hình khu công nghiệp hiện đại. Đồng thời, bổ sung định hướng phát triển mạnh thương mại điện tử; du lịch; các sàn giao dịch tài sản thực, tài sản mã hóa; định hướng phát triển nông nghiệp số, công nghệ cao; các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp...
Nguồn lực thực hiện quy hoạch được bổ sung một số giải pháp như: thành lập Cổng đầu tư một cửa quốc gia; tăng cường thu hút đầu tư gián tiếp; xây dựng và thực thi cơ chế, chính sách đột phá, ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng khoa học công nghệ; tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, nhất là các ngành mũi nhọn.




