An Giang đầu tư hơn 1.450 tỉ đồng các công trình phục vụ nước sạch
Để tỉ lệ cư dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn cần có các giải pháp công trình và phi công trình.

Sáng 30.12, kỳ họp thứ 7 HĐND tỉnh An Giang bước vào phiên chất vấn trực tiếp tại nghị trường.
Mở đầu cho phiên chất vấn, đại biểu Trần Thị Xuân Yên đặt vấn đề về nước sạch nông thôn, làm sao để nâng cao tỉ lệ người dân ở nông thôn sử dụng nước nước sạch đạt quy chuẩn.
Về vấn đề này, ông Lê Hữu Toàn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường - cho rằng việc chăm lo đời sống của bà con rất được quan tâm. Ngành chuyên môn đẩy nhanh thực hiện các dự án, trong đó có các dự án nước sạch nông thôn. Từ khi sáp nhập 2 tỉnh, Sở đã chỉ đạo rà soát lại toàn bộ hệ thống, hiện trạng nước sạch nông thôn.
Đối với khu vực cấp nước An Giang trước sáp nhập tỉnh: Khu vực nông thôn An Giang có 44 xã, có 3 mô hình quản lý cung cấp nước sạch. Với tổng số 148 công trình đang phục vụ cho 58.577 hộ dân trên địa bàn 21 xã, số còn lại là doanh nghiệp và hợp tác xã 105 công trình.

Tỉ lệ hộ dân sử dụng hợp vệ sinh là 99,94%, tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch theo quy chuẩn là 97,60%, còn lại 3% chủ yếu tại các khu vực vùng sâu, vùng xa.
Đối với khu vực cấp nước Kiên Giang trước sáp nhập tỉnh: có 41 xã và 3 đặc khu, có 3 mô hình quản lý cung cấp nước sạch với tổng số 90 công trình, đang phục vụ cho trên 97.000 hộ dân trên địa bàn 38 xã, còn lại là Doanh nghiệp và UBND các xã.
Tỉ lệ hộ dân sử dụng hợp vệ sinh là 99,8%; tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch theo quy chuẩn là 65,43%.
Sau sáp nhập, tính đến cuối năm 2025, tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn đạt 82.01%. Trong năm 2026, tiếp tục hoàn thiện các công trình đang triển khai năm 2025 nghiệm thu đưa vào sử dụng trong quý I/2026 phục vụ trên 7.000 hộ góp phần nâng tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn lên trên 83%.
Theo ông Toàn, còn một số khó khăn như công tác sáp nhập địa giới hành chính (huyện, xã) gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý; Đối với khu vực An Giang (cũ) mặc dù tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch của các xã cao vượt nhiều so với mục tiêu đề ra nhưng tỉ lệ này không bền vững, do hầu hết các công trình cấp nước tập trung có thời gian sử dụng lâu, hết công suất, đã xuống cấp nhưng chưa được bố trí kinh phí đầu tư nâng cấp mở rộng.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang cho biết, định hướng mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, tỉ lệ cư dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn là 89,5% với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày.
Một số giải pháp cụ thể như giải pháp phi công trình: Ứng dụng công nghệ, thiết bị thông minh trong quản lý, vận hành hệ thống cấp nước, nghiên cứu lựa chọn công nghệ và thiết bị xử lý nước hiện đại, thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng và thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu. Thực hiện quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước đảm bảo cho các công trình cấp nước hoạt động bền vững.
Về giải pháp công trình, ông Toàn cho hay: Giai đoạn 2026-2030, đối với khu vực Kiên Giang (trước sáp nhập) đã được tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư để nâng cấp, mở rộng, đầu tư mới các công trình với tổng kinh phí dự kiến 902 tỉ (xây dựng mới 19 trạm cấp nước; nâng cấp, mở rộng 26 trạm hiện hữu, phục vụ cho 47.937 hộ), để đảm bảo mục tiêu “tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung đạt 55%”, góp phần nâng tỉ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch đạt trên địa bàn tỉnh đến 2030 89,5% (trong đó khu vực Kiên Giang 77%, An Giang 99%).
Đối với khu vực An Giang cũ, kiến nghị tỉnh bố trí kinh phí khoảng 550 tỉ đồng để nâng cấp mở rộng 31 trạm cấp nước tập trung có thời gian sử dụng lâu, hết công suất, đã xuống cấp ở địa bàn An Giang cũ.



