Việt Nam trong chu kỳ vận động mới của kinh tế toàn cầu
Trong khuôn khổ Diễn đàn Thường niên lần thứ 8 (AF8) do Viện Thành viên Hội đồng Quản trị Việt Nam (VIOD) tổ chức mới đây, ông Michael Kokalari – Kinh tế trưởng VinaCapital đưa ra loạt nhận định mới nhất về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm tới.
![]() |
| Tiến trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu đang dịch chuyển sâu hơn về Đông Nam Á. Ảnh ST |
Chuỗi dịch chuyển toàn cầu mở ra cơ hội mới nhưng cũng đặt ra nhiều sức ép
Kinh tế toàn cầu bước sang giai đoạn bất định kéo dài khi các ngân hàng trung ương lớn duy trì chiến lược “lãi suất cao lâu hơn” nhằm kiềm chế lạm phát. Mặt bằng chi phí vốn quốc tế neo cao khiến dòng tiền toàn cầu phân bổ thận trọng hơn, đồng thời tạo áp lực rõ rệt lên các nền kinh tế mới nổi. Trong bối cảnh đó, VinaCapital dự báo VND có thể giảm giá khoảng 4–5% trong giai đoạn 2025 - 2026, mức phù hợp với chu kỳ tiền tệ hiện tại nhưng vẫn đòi hỏi điều hành tỷ giá linh hoạt và thận trọng.
Song song biến động tiền tệ, tiến trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu đang dịch chuyển sâu hơn về Đông Nam Á. Việt Nam tiếp tục nổi lên như điểm đến ưu tiên nhờ môi trường chính trị ổn định, lực lượng lao động trẻ và khả năng mở rộng công suất nhanh. Ông Michael Kokalari cho biết chỉ dấu rõ nét nhất của sức bật này là mức tăng gần 30% trong xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2025 – thị trường mà nhóm 10% người tiêu dùng thu nhập cao chiếm phần lớn tổng chi tiêu, qua đó duy trì nhu cầu mạnh dù lãi suất tăng kéo dài.
Du lịch quốc tế phục hồi cũng bổ sung một trụ đỡ quan trọng, với sự trở lại của dòng khách Đông Bắc Á và chính sách thị thực cởi mở giúp ngành dịch vụ duy trì đà phục hồi sau đại dịch.
Dẫu vậy, cơ hội luôn đi cùng sức ép. Những thay đổi nhanh của môi trường quốc tế đặt ra yêu cầu cao hơn đối với hạ tầng, logistics và năng lực thích ứng của doanh nghiệp. Biến động từ các trung tâm tài chính lớn truyền dẫn gần như tức thời qua chi phí vốn, thanh khoản và tâm lý đầu tư.
Theo VinaCapital, thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn dồi dào, tạo điều kiện giữ ổn định mặt bằng lãi suất để hỗ trợ sản xuất – tiêu dùng mà không gây áp lực lên lạm phát. Khu vực sản xuất, đặc biệt là điện tử và thiết bị, phục hồi mạnh hơn kỳ vọng và tiếp tục củng cố vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị khu vực.
Những chuyển động này cho thấy Việt Nam bước vào giai đoạn 2025 - 2026 với yêu cầu phải thận trọng nhưng linh hoạt, nhằm tận dụng cơ hội và giảm thiểu rủi ro từ biến động toàn cầu.
![]() |
| Ông Michael Kokalari - Kinh tế trưởng VinaCapital tại Diễn đàn |
Quỹ đạo tăng trưởng 2025 - 2026: Sản xuất dẫn dắt, tiêu dùng tái lập động lực và độ trễ hạ tầng mở chu kỳ mới
Bước sang năm 2025, nền kinh tế Việt Nam ghi nhận tăng trưởng cao nhưng cấu phần đóng góp đã thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước đại dịch COVID 19. GDP 9 tháng đầu năm đạt 7,9% cho thấy nền tảng vĩ mô tích cực, song đáng chú ý hơn là sự hình thành một “trục động lực” tăng trưởng mới dựa trên sản xuất – xuất khẩu và đầu tư công.
Khu vực sản xuất, vốn chịu nhiều sức ép trong chu kỳ suy giảm toàn cầu 2023 - 2024, đang trở lại vai trò dẫn dắt. Mức tăng gần 30% của xuất khẩu sang Hoa Kỳ vừa phản ánh nhu cầu phục hồi, vừa khẳng định vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu khi doanh nghiệp quốc tế mở rộng sản xuất ngoài Trung Quốc. Đà phục hồi mạnh của nhóm điện tử củng cố nhận định Việt Nam đang dịch chuyển lên nấc thang giá trị cao hơn. Du lịch quốc tế tăng tốc trở lại tạo thêm một cột trụ quan trọng, trong khi thặng dư thương mại tiếp tục hỗ trợ ổn định tỷ giá và củng cố niềm tin chính sách.
Một yếu tố mang tính quyết định cho giai đoạn 2025 - 2026 là độ trễ của đầu tư công. Việc chi tiêu xây dựng quý I/2025 tăng tới 43% cho thấy giải ngân đã chuyển từ kỳ vọng sang thực thi. Các dự án lớn như sân bay Long Thành, cao tốc Bắc – Nam hay hệ thống vành đai đang bước vào giai đoạn tạo giá trị thực. Theo các mô hình tăng trưởng, hiệu ứng lan tỏa của hạ tầng thường rõ rệt sau 12–18 tháng, đồng nghĩa năm 2026 là thời điểm cung mở rộng mạnh hơn và tạo không gian tăng trưởng trung hạn.
Ở chiều cầu, tiêu dùng nội địa – từng là trụ cột chính – phục hồi chậm hơn dự kiến do tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình vẫn cao hơn trước dịch khoảng 10 điểm phần trăm. Tuy nhiên, sự chậm lại này mang tính “nén lực” hơn là suy yếu. Khi thu nhập cải thiện, thị trường lao động ổn định và lạm phát duy trì dưới 4% theo dự báo của VinaCapital, phần tiết kiệm bị nén sẽ dần dịch chuyển sang tiêu dùng. Đây là cơ sở để kỳ vọng năm 2026 sẽ chứng kiến sức bật rõ nét hơn của cầu nội địa.
Trong bối cảnh đó, xuất khẩu năm 2026 vẫn có dư địa tăng khi nhóm người tiêu dùng thu nhập cao tại Hoa Kỳ duy trì sức mua mạnh, tạo hỗ trợ ổn định cho các ngành điện tử, dệt may, giày dép và đồ gỗ.
Tổng hòa các yếu tố cho thấy giai đoạn 2025 - 2026 không chỉ là nhịp phục hồi theo chu kỳ, mà là thời điểm Việt Nam thiết lập lại cấu trúc tăng trưởng với ba tầng động lực nối tiếp nhau: sản xuất - xuất khẩu giữ nhịp ngắn hạn, hạ tầng mở rộng cung trung hạn và tiêu dùng nội địa tái lập vai trò dẫn dắt khi lạm phát ổn định. Sự giao thoa của ba tầng động lực này tạo nền tảng để Việt Nam bước vào một quỹ đạo tăng trưởng bền vững hơn.
Đổi Mới 2.0, lợi thế AI và triển vọng dài hạn của thị trường vốn
Ở chiều dài hạn, ông Michael Kokalari cho rằng sức bật của kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào tiến trình “Đổi Mới 2.0” – khuôn khổ cải cách xoay quanh bốn trụ cột: tinh gọn bộ máy, thúc đẩy khu vực tư nhân, đặt mục tiêu bứt phá cho công nghệ và đẩy nhanh triển khai hạ tầng. Nếu thực thi nhất quán, các cải cách này có thể nâng thêm khoảng 2 điểm phần trăm tăng trưởng GDP tiềm năng trong thập kỷ tới.
Lợi thế công nghệ, đặc biệt trong AI, đang mở ra một tầng động lực mới. Việc Qualcomm mua lại mảng AI tạo sinh của VinAI không chỉ cho thấy năng lực công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam, mà còn mở ra cơ hội hình thành các “cụm công nghệ tập trung” theo mô hình Penang hay Thâm Quyến. Với lực lượng kỹ sư trẻ và sự mở rộng của các doanh nghiệp công nghệ, Việt Nam có dư địa tiến sâu vào chuỗi giá trị công nghệ cao trong những năm tới.
Thị trường vốn cũng là trụ cột quan trọng trong câu chuyện dài hạn. Chi phí vốn cấu trúc của Việt Nam hiện vẫn cao – chi phí vốn chủ sở hữu khoảng 15,2% và chi phí vay nợ khoảng 7,8%. Dư địa cải thiện rất lớn nếu tiến trình nâng hạng tín nhiệm quốc gia được thúc đẩy và độ sâu thị trường vốn được mở rộng. Đây là điều kiện then chốt để giảm chi phí vốn dài hạn, giúp doanh nghiệp nâng cấp công nghệ và tăng năng lực cạnh tranh.
Nhìn tổng thể, Việt Nam bước vào giai đoạn 2025 - 2026 với bộ khung động lực hoàn chỉnh: xuất khẩu và du lịch giữ nhịp ngắn hạn, hạ tầng tạo lực kéo trung hạn, và cải cách – công nghệ – thị trường vốn mở ra dư địa dài hạn. Như ông Kokalari nhận định tại diễn đàn, sức mạnh của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ đến từ khả năng kết hợp giữa nội lực cải cách và cơ hội từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu.





