• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Giữ nghề làm bánh cáy Hưng Yên giữa nhịp sống hiện đại

Bánh cáy Hưng Yên là một món quà quê dẻo thơm, cay nồng mùi gừng lưu giữ trọn vẹn hương vị và ký ức của làng nghề truyền thống miền quê lúa.

Giữ nghề làm bánh cáy Hưng Yên giữa nhịp sống hiện đại

Nguyên liệu tự nhiên như nếp, gấc, gừng, lạc được chuẩn bị để làm bánh cáy. Ảnh: Mai Hương

Đặc sản miền quê mang hương vị nhớ thương

Bánh cáy là đặc sản có nguồn gốc từ làng Nguyễn, thuộc xã Đông Hưng, tỉnh Hưng Yên (xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình cũ). Trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, từ một món quà quê mộc mạc, bánh cáy đã trở thành biểu tượng ẩm thực đặc trưng của vùng quê lúa, mang theo ký ức, hương vị và cả nếp sinh hoạt văn hóa của nhiều thế hệ người dân đồng bằng Bắc Bộ.

Nhắc đến bánh cáy, người ta dễ bị cuốn hút ngay từ mùi thơm nồng của gừng già, vị dẻo quyện của nếp cái hoa vàng, xen lẫn cái bùi béo của lạc, vừng và vị ngọt dịu của đường mía. Một thứ bánh không cầu kỳ hình thức nhưng lại có sức níu giữ kỳ lạ, khiến người đã từng thưởng thức khó lòng quên được. Đặc biệt, mỗi dịp Tết Nguyên đán cận kề, bánh cáy lại trở thành món quà quê được nhiều người tìm mua, mang biếu họ hàng, người thân.

Theo dân gian, bánh được gọi là bánh cáy vì phần “con cáy” trong bánh là những hạt nếp được tạo hình nhỏ li ti - trông giống như trứng con cáy. Cũng có cách lý giải khác, cho rằng ngày xưa bánh thơm ngon được quan địa phương chọn dâng vua. Khi thưởng thức, nhà vua cảm nhận được vị bùi, ngọt hòa quyện cùng vị cay nồng của gừng nên hỏi tên bánh. Viên quan đáp rằng đó là “bánh cay”, lâu dần người dân đọc chệch thành bánh cáy. Dù theo cách giải thích nào, tên gọi bánh cáy vẫn gợi lên nét dân dã, gần gũi, đậm chất làng quê Bắc Bộ.

Bánh cáy ngon chỉ khi đạt đủ độ dẻo của nếp, cái bùi của lạc vừng, vị ngọt vừa phải của đường mía và đặc biệt là mùi thơm cay nồng của gừng già. Cắn một miếng bánh cáy, vị ngọt nhẹ lan tỏa, sau đó là cảm giác hơi tê cay nơi đầu lưỡi, càng nhai càng dậy mùi thơm. Nhấp thêm chén trà xanh nóng, nhất là trong tiết trời thu se lạnh hay những ngày cuối năm, người thưởng thức dễ cảm nhận trọn vẹn sự tinh tế của món quà quê này.

Trải qua bao biến thiên của thời gian, làng Nguyễn vẫn giữ được nghề làm bánh cáy truyền thống. Có thời điểm, hàng trăm hộ dân cùng tham gia sản xuất bánh cáy. Mỗi gia đình lại có một bí quyết riêng trong cách chọn nguyên liệu, pha trộn gia vị, điều chỉnh lửa khi sên bánh, tạo nên “chất” riêng không trộn lẫn. Tuy nhiên, tựu chung tất cả đều cùng chung một tổ nghề, cùng gìn giữ tinh hoa của món bánh cổ truyền đã gắn bó với làng quê qua nhiều thế hệ.

Trong nhịp sống hiện đại, khi xã hội ngày càng phát triển, thị trường xuất hiện thêm nhiều loại bánh kẹo mới, đa dạng mẫu mã, hương vị, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, nghề làm bánh cáy cũng đứng trước không ít khó khăn.

Công đoạn ép bánh cáy truyền thống tại làng Nguyễn.
Công đoạn ép bánh cáy truyền thống tại làng Nguyễn. Ảnh: Mai Hương

Việc gìn giữ, phát triển một loại bánh truyền thống đòi hỏi không chỉ tâm huyết mà còn cả sự thích nghi linh hoạt với thị trường. Thế nhưng, bằng tình yêu nghề và ý thức gìn giữ di sản, nhiều người dân làng Nguyễn vẫn bền bỉ bám nghề, coi việc làm bánh cáy không chỉ là kế sinh nhai mà còn là trách nhiệm với tổ nghề, với quê hương.

Ông Nguyễn Hữu Thắng, chủ một cơ sở sản xuất bánh cáy ở xã Đông Hưng, người có hơn 30 năm gắn bó với nghề, cho biết để làm ra một chiếc bánh cáy dẻo thơm phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. Nguyên liệu hoàn toàn lấy từ thiên nhiên như gấc, quả hoặc lá dành dành, lạc, vừng, gừng, cà rốt… “Sau khi có đủ nguyên liệu, tôi đem trộn với đường mía, đun trên chảo mỡ lợn hoặc dầu ăn, đảo đều rồi đổ vào khuôn nén thành bánh. Khuôn bánh to sẽ được cắt thành miếng vừa ăn, sau đó đóng túi, cho vào hộp thành phẩm” - ông Thắng chia sẻ.

Qua thời gian, bánh cáy không chỉ là món ăn mà đã trở thành một phần ký ức của nhiều người con xa quê. Với họ, đôi khi chỉ cần một miếng bánh cáy, một ấm trà nóng cũng đủ làm vơi đi nỗi nhớ nhà, gợi lại hình ảnh làng quê yên bình, những ngày Tết sum họp, những buổi chiều đông quây quần bên bếp lửa.

Người thợ làng Nguyễn tỉ mỉ tạo hình từng hạt bánh cáy. Ảnh: Mai Hương
Người thợ làng Nguyễn tỉ mỉ tạo hình từng hạt bánh cáy. Ảnh: Mai Hương

Gìn giữ giá trị làng nghề truyền thống

Trong kho tàng ẩm thực dân gian Việt Nam, bánh cáy làng Nguyễn nổi bật như một biểu tượng của sự khéo léo và tinh tế, được tạo nên từ những nguyên liệu giản dị của đồng ruộng quê hương. Không chỉ là đặc sản địa phương, bánh cáy còn đại diện cho văn hóa làng nghề lâu đời, gắn bó mật thiết với đời sống nông thôn miền Bắc.

Năm 2019, bánh cáy làng Nguyễn được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình bảo tồn và phát huy giá trị của món bánh truyền thống.

Trước đây, bánh cáy chủ yếu được làm vào các dịp lễ hội, cưới hỏi hay Tết Nguyên đán để biếu tặng họ hàng, người thân. Theo thời gian, cùng với nhu cầu thị trường ngày càng mở rộng, nghề làm bánh cáy phát triển quanh năm. Hiện nay, làng Nguyễn vẫn duy trì hơn 100 hộ gia đình tham gia sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động địa phương, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế nông thôn.

Công nhân đang đóng bánh cáy tại cơ sở sản xuất. Ảnh: Mai Hương
Công nhân đang đóng bánh cáy tại cơ sở sản xuất. Ảnh: Mai Hương

Không dừng lại ở giá trị văn hóa, bánh cáy còn từng bước khẳng định vị thế trên thị trường. Năm 2022, bánh cáy làng Nguyễn được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) công nhận là một trong 100 đặc sản quà tặng nổi tiếng Việt Nam. Đây không chỉ là sự ghi nhận về chất lượng sản phẩm mà còn là minh chứng cho sức sống bền bỉ của một làng nghề truyền thống trong dòng chảy hiện đại.

Hiện nay, bánh cáy được đóng gói thành từng phong hoặc từng hộp nhỏ, thuận tiện cho việc bảo quản và vận chuyển. Giá bán dao động từ khoảng 80.000 - 120.000 đồng/kg, hoặc phổ biến hơn là 25.000 - 35.000 đồng/hộp, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng. Nhờ vậy, bánh cáy không chỉ hiện diện trong mâm cỗ ngày Tết mà còn trở thành món quà quê được nhiều người lựa chọn khi đi xa, về quê hay làm quà biếu.

Trước sự cạnh tranh ngày càng lớn của các sản phẩm bánh kẹo hiện đại, nhiều cơ sở sản xuất bánh cáy đã chủ động đầu tư máy móc, cải tiến quy trình, nâng cấp cơ sở làm bánh nhằm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng nhưng vẫn giữ được hương vị truyền thống. Việc kết hợp giữa phương pháp thủ công và công nghệ mới giúp nâng cao năng suất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời giữ được chất lượng đặc trưng của bánh cáy.

Bánh cáy Hưng Yên được đóng gói sẵn phục vụ người tiêu dùng. Ảnh: Mai Hương
Bánh cáy Hưng Yên được đóng gói sẵn phục vụ người tiêu dùng. Ảnh: Mai Hương

Vào mỗi dịp cuối năm, cơ sở bánh kẹo Đình Mạnh của ông Nguyễn Đình Mạnh - một trong những cơ sở sản xuất bánh cáy lớn của địa phương luôn tất bật tăng ca sản xuất. Hàng chục công nhân làm việc liên tục, mỗi người một công đoạn, từ sơ chế nguyên liệu, sên bánh, ép khuôn đến đóng gói, để kịp giao những đơn hàng Tết cho khách. Không chỉ nổi tiếng với bánh cáy, cơ sở này còn được nhiều người biết đến với các sản phẩm kẹo lạc, kẹo dồi mang hương vị truyền thống, góp phần làm phong phú thêm bức tranh ẩm thực làng nghề.

Ngày nay, bên cạnh sản xuất, làng Nguyễn còn từng bước phát triển mô hình du lịch trải nghiệm, nơi du khách có thể trực tiếp tham gia các công đoạn làm bánh, tìm hiểu lịch sử làng nghề và thưởng thức bánh cáy ngay tại nơi ra đời. Đây được xem là hướng đi phù hợp, vừa quảng bá sản phẩm, vừa giúp thế hệ trẻ hiểu và trân trọng hơn giá trị di sản mà cha ông để lại.

Với giá trị di sản được bảo vệ và những nỗ lực không ngừng của người dân, bánh cáy Hưng Yên hôm nay vẫn tiếp tục lan tỏa hương vị truyền thống, mời gọi mỗi người cùng gìn giữ, nâng niu và phát huy tinh hoa ẩm thực quê nhà.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết