Công nghệ xử lý chất thải: Gỡ điểm nghẽn, mở đường cho công nghiệp môi trường
Theo các chuyên gia, phát triển công nghệ xử lý, tái chế chất thải là chìa khóa giúp Việt Nam thúc đẩy ngành công nghiệp môi trường và kinh tế tuần hoàn.
Từ bài toán công nghệ đến chiến lược quốc gia
Ngành công nghiệp môi trường được kỳ vọng trở thành một trong những động lực tăng trưởng xanh của Việt Nam trong giai đoạn tới. Việc triển khai Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), cùng với các chương trình phát triển kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng đã mở ra dư địa lớn cho các doanh nghiệp xử lý, tái chế chất thải.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Đức Quyền – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Năng lượng và Môi trường Bách khoa Hà Nội (BKEET) cho rằng: Doanh nghiệp hiện nay không chỉ tham gia sản xuất thiết bị, mà còn chủ động hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các đơn vị ứng dụng công nghệ xử lý và tái chế chất thải.
Ông Nguyễn Đức Quyền - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Năng lượng và Môi trường Bách khoa Hà Nội
“Thay vì dừng lại ở việc xử lý chất thải bằng phương pháp đốt để giảm thể tích và khử mùi, doanh nghiệp đã chuyển sang cấp độ cao hơn: thu hồi và tận dụng toàn bộ phần nhiệt thừa trong quá trình xử lý để phục vụ các hoạt động sản xuất như cung cấp hơi nước cho hệ thống sấy nông sản, lâm sản tại địa phương. Đây là hướng đi có ý nghĩa cả về công nghệ và hiệu quả kinh tế”- ông Quyền cho hay.
Theo ông, ở cấp độ cao nhất mà doanh nghiệp đang triển khai, hệ thống xử lý được thiết kế theo quy mô cấp tỉnh hoặc huyện, có khả năng thu gom và xử lý đồng thời các loại chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp thông thường, với công suất từ 500 đến 1.000 tấn/ngày.
Hệ thống này không chỉ xử lý chất thải mà còn đồng thời phát điện, giúp tận dụng tối đa tài nguyên và góp phần giảm phát thải. Đây là một xu thế tất yếu, giúp giải quyết đồng bộ các vấn đề về nước thải, khí thải và chất thải rắn,. Qua đó góp phần cải thiện chất lượng không khí và môi trường sống, đồng thời tạo ra sản phẩm mà ông cho rằng hoàn toàn có thể tự hào trong ngành công nghiệp môi trường.
Tuy nhiên, ông Quyền cũng thẳng thắn chỉ ra nhiều nhược điểm của mô hình này. Trước hết là khả năng vận hành không ổn định do thiếu nhân lực kỹ thuật cao. Chi phí vận hành cao, bao gồm cả bảo trì, bảo dưỡng, tiền lương và khấu hao thiết bị, khiến mô hình này không bền vững về lâu dài.
Ông nhấn mạnh: “Dù có đầu tư ban đầu từ nhà nước, nhưng nếu không đủ năng lực duy trì vận hành liên tục thì hệ thống sẽ nhanh chóng xuống cấp”.
Một vấn đề quan trọng khác mà ông Quyền nêu lên là về nhận thức và trình độ nguồn nhân lực địa phương. Việc vận hành thiết bị xử lý chất thải đòi hỏi kiến thức chuyên môn về điện, nhiệt, cơ khí, điều mà phần lớn cán bộ kỹ thuật tại cơ sở chưa đáp ứng được.
Đây chính là lý do khiến Bộ Nông nghiệp và Môi trường hiện nay không khuyến khích nhân rộng các mô hình đốt rác có công suất nhỏ dưới 300 kg/h, vì hiệu quả xử lý không bảo đảm và dễ phát sinh sự cố môi trường.
Ưu tiên nội địa hóa, đồng bộ chính sách
Theo ông Nguyễn Đức Quyền, trong bối cảnh phát triển kinh tế tuần hoàn và thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), doanh nghiệp của ông đã chủ động đầu tư phát triển thiết bị công nghệ, đồng thời triển khai các giải pháp kỹ thuật hỗ trợ các đơn vị sử dụng, với trọng tâm là xử lý và tái chế chất thải rắn.
Lò đốt chất thải nguy hại Vite công suất 50kg/h tại Xưởng X56 Quân khu 3 do Bkeet thiết kế, chế tạo và lắp đặt
Ông cho biết, đến nay, BKEET đã tiến lên cấp độ công nghệ cao hơn: thu hồi và tái sử dụng toàn bộ phần nhiệt thừa sinh ra từ quá trình đốt để phục vụ sản xuất hơi nước, cung cấp cho các dây chuyền sấy nông, lâm sản tại địa phương. Đây là hướng đi không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn phù hợp với định hướng sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính.
Ở quy mô lớn hơn, doanh nghiệp hiện đang triển khai hệ thống xử lý chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp thông thường, với công suất từ 500 đến 1.000 tấn/ngày. Hệ thống này có khả năng phát điện, đồng thời xử lý hiệu quả nước thải, khí thải, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng môi trường và đóng góp vào chuỗi giá trị kinh tế tuần hoàn.
Một trở ngại lớn khác theo ông Quyền là quy mô thị trường công nghiệp môi trường tại Việt Nam vẫn còn quá nhỏ, chưa đủ sức tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư bài bản và dài hạn. Trong cơ cấu sản phẩm xử lý chất thải, phần “lõi công nghệ” gồm thiết bị điều khiển, điện tử và cảm biến, chỉ chiếm khoảng 5–10% giá trị nhưng lại có chi phí rất cao, chủ yếu phải nhập khẩu. Trong khi đó, phần kết cấu xây dựng, thép, bê tông chiếm tới 70–80% khối lượng chế tạo, nhưng giá trị gia tăng không cao.
Về nội địa hóa, ông Quyền cho biết, với các sản phẩm lò đốt quy mô nhỏ (dưới 5 tấn/giờ), doanh nghiệp trong nước hiện đã có thể tự chủ tới 90% các hạng mục thiết bị, chủ yếu là phần kết cấu thép, vỏ lò và các hệ thống phụ trợ. Tuy nhiên, đối với các hệ thống lớn như nhà máy điện rác, tỷ lệ nội địa hóa hiện mới đạt khoảng 5–10%, tập trung vào phần móng, khung thép, bể chứa và các hạng mục dân dụng.
Ba nhóm thiết bị chính vẫn phải nhập khẩu gồm: Tổ máy phát điện công suất lớn; Lò hơi và các thiết bị áp lực cao; Hệ thống xử lý khí thải, đặc biệt là bộ lọc khô, ống khói và cảm biến đo khí độc hại.
Lý do là các vật liệu sử dụng cho các hạng mục này như thép đúc chịu nhiệt, inox 304/316, ống đúc áp lực cao hiện chưa được sản xuất phổ biến tại Việt Nam, hoặc nếu có thì giá thành cao hơn so với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Vì vậy, dù trong nước có thể chế tạo được một số thiết bị, nhưng giá thành khó cạnh tranh, làm giảm hiệu quả kinh tế của dự án.
Về lâu dài, ông Quyền cho rằng Việt Nam cần thúc đẩy phát triển vật liệu công nghiệp môi trường trong nước, đồng thời có chính sách tài chính phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp nội địa hóa dần thiết bị xử lý rác thải. Riêng về công nghệ lõi, ông khẳng định doanh nghiệp đã làm chủ được thiết kế, vận hành và tích hợp nhiều tính năng mới như điều khiển tự động, kết nối dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để tối ưu hiệu suất xử lý và kiểm soát chất lượng khí thải.
Ông cũng nhấn mạnh rằng, nội địa hóa không chỉ là bài toán công nghệ mà còn là chiến lược giảm phụ thuộc và nâng cao năng lực tự chủ quốc gia trong lĩnh vực môi trường. Việc chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trong nước và khuyến khích doanh nghiệp khác cùng tham gia là cách để lan tỏa mô hình và phát triển ngành công nghiệp môi trường một cách bền vững.
Công nghệ xử lý chất thải, trụ cột của công nghiệp môi trường
Hiện tiềm năng từ chất thải rắn là rất lớn nếu được nhìn nhận dưới góc độ tài nguyên thứ cấp. Trung bình mỗi người Việt Nam thải ra từ 0,8 đến 1,5 kg chất thải rắn mỗi ngày, với quy mô dân số khoảng 100 triệu người, lượng chất thải rắn phát sinh mỗi ngày vào khoảng 100.000 tấn. Nếu chúng ta coi chất thải như một dạng năng lượng tái tạo, thay vì chỉ là thứ cần tiêu hủy, thì phần chất thải đó khi được thu hồi, xử lý và phát điện, sẽ không chỉ góp phần giảm áp lực lên môi trường mà còn mang lại hiệu quả kinh tế.
Ông Quyền chỉ ra, theo phương pháp quy đổi hiện nay, lượng chất thải nếu được xử lý hiệu quả có thể giúp cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính tương đương gấp 1,2 lần nghĩa là với 100.000 tấn rác thải/ngày, có thể giảm phát thải tương đương 120.000 tấn CO₂, nhờ thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch. Điều này giúp đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn.
Để thúc đẩy ngành công nghiệp môi trường rất cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước
Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả tiềm năng đó, thì cần có sự hỗ trợ thiết thực từ phía nhà nước, nhất là trong vấn đề công nghệ.
Nhà nước nên xem xét miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu đối với các thiết bị công nghệ cao phục vụ xử lý và tái chế chất thải. Đây là cách mà nhiều quốc gia lân cận đã và đang áp dụng hiệu quả để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Bởi lẽ, các thiết bị công nghệ xử lý chất thải vẫn còn khá mới, chưa phổ biến, giá trị đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn dài điều khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân còn e ngại.
Ngoài ra, ông cũng nêu thực trạng việc công nhận doanh nghiệp là "doanh nghiệp khoa học công nghệ" theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ hiện vẫn còn nhiều vướng mắc.
Cụ thể, doanh nghiệp phải chứng minh được quyền sở hữu trí tuệ và trải qua quá trình đánh giá, xác minh kéo dài từ nhiều sở, ngành mới được hưởng các ưu đãi về thuế. Mặc dù chủ trương rất đúng đắn và mang tính hỗ trợ cao, nhưng trên thực tế, quy trình triển khai còn phức tạp và chưa sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Ông cho rằng, đây là điểm nghẽn lớn thứ hai cần được tháo gỡ.
Một vướng mắc khác được ông Quyền cho hay, đó là sự chồng chéo trong thủ tục đầu tư các dự án xử lý chất thải.
Ông cho biết, doanh nghiệp thường phải trải qua hàng loạt quy trình như lập và thẩm định báo cáo khả thi (FS), đánh giá tác động môi trường, thẩm định công nghệ, thẩm tra thiết kế bản vẽ thi công… Mỗi bước kéo dài hàng chục ngày, thậm chí hàng tháng, khiến tổng thời gian hoàn thiện thủ tục có thể lên tới vài năm.
“Với một dự án có vòng đời 40 năm, nhưng chỉ riêng khâu thủ tục có thể mất đến 10 năm, đây là một thực tế rất cần suy nghĩ”, ông Quyền nhấn mạnh.
Theo ông Nguyễn Đức Quyền – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Năng lượng và Môi trường Bách khoa Hà Nội (BKEET), việc cải tiến quy trình không chỉ giúp rút ngắn thời gian đưa dự án vào vận hành, mà còn tạo niềm tin cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực còn nhiều rủi ro như xử lý chất thải rắn.