Nền kinh tế phát triển bền vững không thể chỉ dựa vào khai thác tài nguyên, mà còn phải dựa trên tri thức, công nghệ, quản trị hiện đại và trách nhiệm xã hội.

"Khi nói đến khoa học công nghệ, chúng ta không chỉ nói về yếu tố thúc đẩy tăng trưởng hay tăng năng suất lao động, mà sâu xa hơn là chất lượng của sự phát triển. Một nền kinh tế phát triển bền vững không thể chỉ dựa vào khai thác tài nguyên, mở rộng quy mô hay lợi thế chi phí thấp, mà còn phải dựa trên tri thức, công nghệ, quản trị hiện đại và trách nhiệm xã hội", bà Hà khẳng định.

Theo bà Hà, ESG không chỉ là bộ tiêu chí đánh giá doanh nghiệp mà còn là một cách tiếp cận phát triển, trong đó, tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo tiến bộ xã hội và nâng cao chất lượng quản trị. "Khoa học công nghệ là cầu nối đưa ESG từ tầm nhìn chiến lược trở thành hành động cụ thể, có thể đo đếm và đánh giá được, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế đất nước cũng như từng doanh nghiệp. Đồng thời, khoa học công nghệ, chuyển đổi số cũng là công cụ quan trọng để giúp nhà nước hoạch định chính sách quản trị phát triển, đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường", bà Hà nhấn mạnh.

Chia sẻ điều này, TS. Trần Văn Khải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu phát triển mới, đòi hỏi sự bứt phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với phát triển bền vững.

Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ra đời đã xác lập nền tảng chính trị quan trọng cho công cuộc này. Nghị quyết đã tạo nền tảng chính trị quan trọng cho ESG tại Việt Nam. Nghị quyết khẳng định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là động lực then chốt của phát triển nhanh, bền vững. Đồng thời, yêu cầu làm chủ công nghệ cốt lõi và ưu tiên nguồn lực cho lĩnh vực này. Đây chính là tiền đề thuận lợi để thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững, bởi phát triển bền vững đòi hỏi hài hòa tăng trưởng kinh tế với môi trường và xã hội.

Nghị quyết 57 đã đề ra nhiều mục tiêu đến năm 2030 như kinh tế số chiếm 30% GDP, Việt Nam thuộc top 50 thế giới về năng lực cạnh tranh số; đến 2045, kinh tế số đạt 50% GDP, thuộc top 30 thế giới về đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 57 còn mở ra các chính sách ưu đãi như hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích doanh nghiệp khoa học công nghệ, quỹ đổi mới sáng tạo, ưu đãi thuế cho chuyển đổi số, giúp doanh nghiệp triển khai ESG thuận lợi hơn.

Ở Việt Nam, ESG được ví như "tấm hộ chiếu" giúp doanh nghiệp hội nhập quốc tế bền vững. Tuy chịu áp lực tuân thủ từ quy định trong nước lẫn yêu cầu đối tác quốc tế, ESG vẫn mang lại lợi ích thiết thực là tiết kiệm chi phí dài hạn và tiếp cận vốn xanh.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp chạy theo phong trào ESG với báo cáo hào nhoáng và cam kết xanh, dẫn đến nguy cơ "tẩy xanh". Thị trường ngày càng soi xét: khách hàng, nhà đầu tư đòi hỏi bằng chứng và hành động thực tế. Vì vậy, muốn giữ niềm tin, thu hút vốn, doanh nghiệp phải "làm thật" chứ không chỉ "nói hay"…

Cũng theo TS Khải, chuyển đổi xanh chỉ thành công khi gắn liền chuyển đổi số, vì vậy khoa học công nghệ chính là chìa khóa để thực hiện ESG hiệu quả. Nếu doanh nghiệp quản trị, sản xuất lạc hậu, hiệu suất sẽ kém và gây hại môi trường. Ngược lại, áp dụng các công nghệ hiện đại (như AI, Big Data, IoT) sẽ giúp doanh nghiệp đồng thời số hóa và xanh hóa, nâng cao năng suất và tính bền vững.

Công nghệ số đang cách mạng hóa cách đánh giá và quản trị ESG: IoT đo lường tức thời các chỉ số môi trường, AI phân tích dữ liệu lớn về hoạt động môi trường, xã hội để cảnh báo sớm rủi ro và đề xuất giải pháp tối ưu. "Nhờ dữ liệu ESG được số hóa minh bạch, không thể chỉnh sửa, doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ báo cáo kiểm chứng với nhà đầu tư, cơ quan quản lý, qua đó củng cố uy tín và mở ra cơ hội tiếp cận vốn xanh", TS Khải khẳng định.